Chú thích Hoàng_Xuân_Lãm

  1. Tiền thân của trường Đại học Quân sự là Trung tâm Huấn luyên Chiến thuật thành lập năm 1952 tại Hà Nội, sau Hiệp định Genève 20/7/1954 di chuyển vào Nam và đổi tên. Năm 1960, di chuyển lên Đà Lạt đổi tên lần cuối thành trường Chỉ huy và Tham mưu.
  2. Binh chủng Thiết giáp khi thành lập đã có một Bộ chỉ huy được đặt gần Trung ương, các đơn vị trực thuộc ban đầu có tổ chức cao nhất là cấp Chi đoàn, sau đó Binh chủng được phát triển để đáp ứng và đối phó với chiến trường, tổ chức đơn vị được nâng lên cấp Trung đoàn (mỗi Trung đoàn có từ 3 đến 5 Chi đoàn trực thuộc). Về sau, thành lập tại mỗi Quân khu một Lữ đoàn được đặt tên theo chữ số của 4 Quân khu, mỗi Lữ đoàn có Bộ Tư lệnh riêng, phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Quân đoàn, cấp số của mỗi Lữ đoàn có từ 5 đến 6 Thiết đoàn (Trung đoàn) bao gồm ba loại thiết xa: Chiến xa hạng nặng M.48, Chiến xa hạng trung M.41 và Thiết vận xa M.113.
    Tư lệnh Lữ đoàn là một sĩ quan cao cấp, chức vụ ngang với một Tư lệnh cấp Sư đoàn của Lục quân và các Quân, Binh chủng khác.
  3. Khóa 3 Trần Hưng Đạo có thể được xem là khóa đầu tiên của trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, nhưng thực tế tiếp nối hai khóa trước là khóa 1 Phan Bội Châu và khóa 2 Quang Trung của trường Võ bị Quốc gia ở Huế trước khi di chuyển về Đà Lạt. Do trường được đặt tại cơ sở cũ của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của Quân đội Thuộc địa Pháp nên lấy tên là trường Võ bị Liên Quân Đà Lạt. Đến năm 1959 đổi tên thành trường Võ bị Quốc gia Đà lạt
  4. Theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Vũng Tàu tháng 10 năm 1952 với Thiếu úy Hoàng Xuân Lãm còn có các Thiếu úy:
    -Lý Tòng Bá, Phan Hòa Hiệp, Trần Quang Khôi, Nguyễn Văn Toàn
    -Nguyễn Văn Tồn, sinh năm 1923, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Tham mưu phó Bộ Chỉ huy Binh chủng Thiết giáp.
    -Nhan Nhật Chương. Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng An Xuyên (Cà Mau).
  5. Đầu năm 1956, Trung đoàn 1 Kỵ binh được đổi tên thành Trung đoàn 1 Thiết giáp.
  6. Thiếu tá Vĩnh Lộc được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
  7. Đai uý Dương Hiếu Nghĩa sinh năm 1925 tại Sa Đéc, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá, thành viên của Việt Nam Cộng hòa trong Ủy ban Liên hợp 4 bên.
  8. Đại tá Lê Quang Trọng sinh năm 1925 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Huế, giải ngũ năm 1964 sau cuộc Chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh ngày 30/1/1964.
  9. Cùng đợt thăng cấp Chuẩn tướng ngày 11/8/1964 với tướng Hoàng Xuân Lãm còn có các Đại tá:
    Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Cao, Nguyễn Văn Kiểm, Đặng Văn Quang, Vĩnh LộcLê Nguyên Khang.
  10. Chiến dịch Lam Sơn 718 diễn ra vào năm 1971 tại khu vực đường 9 Nam Lào nên gọi là 719. Khai diễn ngày 8 tháng 2 năm 1971, kết thúc ngày 6 tháng 4 cùng năm.
  11. Chức vụ Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng, thực tế chỉ là một chức vụ "ngồi chơi xơi nước".
  12. Trung tá Vũ Quốc Công sinh năm 1938 tại Nam Định. Tốt nghiệp khóa 10 trường Sĩ Quan Hải quân Nha Trang.
  13. “Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Hành Quân Lam Sơn 719, qua đời”